Gây tê là gì? Các công bố khoa học về Gây tê

Gây tê là kỹ thuật y khoa nhằm ngăn chặn cảm giác đau tại một vùng cơ thể, được ứng dụng rộng rãi trong phẫu thuật. Kỹ thuật này đã xuất hiện từ cổ đại, nhưng phát triển hiện đại từ thế kỷ 19 khi William T.G. Morton giới thiệu eter như chất gây mê. Có ba loại chính: gây tê cục bộ, vùng và toàn thân. Cơ chế hoạt động dựa trên ngăn chặn tín hiệu thần kinh tới não. Dù gây tê rất an toàn, vẫn tồn tại một số rủi ro và tác dụng phụ tiềm ẩn. Sự tiến bộ của gây tê tăng chất lượng và hiệu quả y khoa.

Gây Tê: Một Khám Phá Chi Tiết

Gây tê là một kỹ thuật y khoa được sử dụng để làm mất cảm giác hay cản trở sự truyền tín hiệu đau của các dây thần kinh tại một vùng cơ thể nhất định. Được sử dụng rộng rãi trong phẫu thuật và các thủ thuật y tế khác, gây tê đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng bệnh nhân không cảm thấy đau đớn hoặc khó chịu trong quá trình điều trị.

Lịch Sử Phát Triển

Các kỹ thuật gây tê đã có lịch sử hàng nghìn năm, với những phương pháp thô sơ được sử dụng bởi nhiều nền văn minh cổ đại. Tuy nhiên, hình thức gây tê hiện đại bắt đầu phát triển từ thế kỷ 19. Năm 1846, William T.G. Morton đã giới thiệu eter như một chất gây mê đường hít trong một cuộc phẫu thuật công khai, mở ra kỷ nguyên mới trong y học.

Các Loại Gây Tê

Gây tê được phân thành nhiều loại khác nhau dựa trên mức độ và phương pháp thực hiện:

  • Gây Tê Cục Bộ: Đây là phương pháp tiêm thuốc gây tê vào khu vực cụ thể nơi sẽ tiến hành thủ thuật. Thường được sử dụng cho các thủ thuật nha khoa hoặc phẫu thuật tiểu phẫu.
  • Gây Tê Vùng: Gồm các phương pháp như gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng, giúp tê liệt phần lớn cơ thể dưới một mức nhất định. Được sử dụng phổ biến trong các ca mổ nội soi ổ bụng và mổ đẻ.
  • Gây Mê Toàn Thân: Được thực hiện khi cần làm mất ý thức của bệnh nhân hoàn toàn, cho phép tiến hành các ca phẫu thuật phức tạp hơn mà không gây đau đớn.

Cơ Chế Hoạt Động

Gây tê hoạt động bằng cách ngăn chặn các tín hiệu thần kinh truyền từ vùng bị thương tới não. Nhóm thuốc này làm giảm sự xâm nhập của ion natri qua màng của sợi thần kinh, từ đó ngăn chặn việc tạo ra và truyền đi của các xung điện.

Ứng Dụng Trong Y Khoa

Ứng dụng của gây tê trong y khoa vô cùng rộng rãi, từ chăm sóc răng miệng đến phẫu thuật tim. Bác sĩ thường sử dụng các loại gây tê khác nhau tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, loại hình thủ thuật và thời gian dự kiến của quá trình điều trị.

Những Rủi Ro và Tác Dụng Phụ

Mặc dù gây tê rất an toàn, nhưng việc sử dụng không đúng cách hoặc phản ứng cá nhân có thể gây ra một số rủi ro và tác dụng phụ. Các tác dụng phụ thông thường bao gồm đau tại vị trí tiêm, buồn nôn và nôn. Trong một số trường hợp hiếm gặp, có thể xảy ra phản ứng dị ứng hoặc biến chứng nghiêm trọng khác.

Kết Luận

Gây tê là một công cụ thiết yếu trong y học hiện đại, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc điều trị trong các quy trình phẫu thuật. Sự phát triển của các kỹ thuật và thuốc gây tê đã góp phần quan trọng vào sự tiến bộ của ngành y tế, đem lại sự an tâm và giảm thiểu đau đớn cho bệnh nhân.

Các bài báo, nghiên cứu, công bố khoa học về chủ đề gây tê:

Nhận diện tiên đoán tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 7 - Trang 3983-3988 - 2003
Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi...... hiện toàn bộ
#Ung thư vú #tế bào gây u #CD44 #CD24 #Dấu mốc bề mặt tế bào #Chuột suy giảm miễn dịch #Khối u mới #Liệu pháp ung thư
Phân Tích Bayesian Về Ngày Đo Carbon Phóng Xạ Dịch bởi AI
Radiocarbon - Tập 51 Số 1 - Trang 337-360 - 2009
Nếu muốn sử dụng các phép đo carbon phóng xạ cho mục đích niên đại, chúng ta cần phải áp dụng các phương pháp thống kê để hiệu chỉnh. Phương pháp hiệu chỉnh được sử dụng phổ biến nhất có thể coi như một ứng dụng đơn giản của thống kê Bayesian, sử dụng cả thông tin từ phép đo mới và thông tin từ đường cong hiệu chỉnh 14C. Tuy nhiên, trong hầu hết các ứng dụng niên đại, ...... hiện toàn bộ
Đánh Giá Phê Phán Các Kỹ Thuật Ấn Đè Để Đo Độ Gãy: Phần I, Đo Đạc Nứt Trực Tiếp Dịch bởi AI
Journal of the American Ceramic Society - Tập 64 Số 9 - Trang 533-538 - 1981
Việc áp dụng các kỹ thuật ấn đè vào việc đánh giá độ gãy được xem xét một cách phê phán, chia thành hai phần. Trong phần đầu tiên này, chú ý tập trung vào một phương pháp liên quan đến việc đo đạc trực tiếp các nứt hình quang học Vickers được sinh ra như một hàm của lực ấn. Một cơ sở lý thuyết cho phương pháp này được thiết lập trước tiên, dưới góc độ cơ học gãy ấn đè đàn hồi/plastic. Do đ...... hiện toàn bộ
Rối loạn nhận thức nhẹ – vượt qua tranh cãi, hướng tới đồng thuận: báo cáo của Nhóm Công tác Quốc tế về Rối loạn Nhận thức Nhẹ Dịch bởi AI
Journal of Internal Medicine - Tập 256 Số 3 - Trang 240-246 - 2004
Tóm tắt.Hội nghị trọng điểm lần thứ nhất đã được tổ chức tại Stockholm, Thụy Điển, từ ngày 2–5 tháng 9 năm 2003. Mục tiêu của hội nghị là tích hợp các quan điểm lâm sàng và dịch tễ học về chủ đề Rối loạn Nhận thức Nhẹ (MCI). Một nhóm chuyên gia quốc tế, đa ngành đã thảo luận về tình trạng hiện tại và các hướng đi trong tương lai của MCI, liên quan đến biểu hiện lâm...... hiện toàn bộ
#Rối loạn nhận thức nhẹ #MCI #lâm sàng #dịch tễ học #sinh dấu #di truyền học #đánh giá nhận thức #chức năng hàng ngày.
Một chất trong huyết thanh được gây ra bởi nội độc tố có khả năng gây hoại tử khối u. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 72 Số 9 - Trang 3666-3670 - 1975
Khi nghiên cứu về "hoại tử xuất huyết" của các khối u được hình thành bởi nội độc tố, người ta phát hiện rằng huyết thanh của chuột bị nhiễm vi khuẩn Calmette - Guerin (BCG) và được điều trị bằng nội độc tố có chứa một chất (yếu tố hoại tử khối u; TNF) có tác dụng gây hoại tử khối u tương tự như nội độc tố tự nó. Huyết thanh dương tính với TNF có hiệu quả tương đương với chính nội độc tố t...... hiện toàn bộ
#yếu tố hoại tử khối u #TNF #nội độc tố #Calmette-Guerin (BCG) #tác nhân gây hoại tử #tế bào biến đổi #đại thực bào #hệ nội mô lưới #sarcoma Meth A
Tetramethyl benzidine cho hóa sinh thần kinh horseradish peroxidase: sản phẩm phản ứng màu xanh không gây ung thư với độ nhạy cao hơn để hình dung các sợi thần kinh đến và đi. Dịch bởi AI
Journal of Histochemistry and Cytochemistry - Tập 26 Số 2 - Trang 106-117 - 1978
Tetramethyl benzidine (TMB) là một chromogen có khả năng không gây ung thư có khả năng tạo ra sản phẩm phản ứng màu xanh tại các vị trí hoạt động của horseradish peroxidase. Sáu mươi sáu thủ tục khác nhau đã được thực hiện trên chuột và khỉ để xác định các thông số ủ tối ưu cho TMB. Kết quả, một thủ tục được khuyến nghị với độ nhạy vượt trội hơn nhiều so với phương pháp benzidine dihydroc...... hiện toàn bộ
#Tetramethyl benzidine #horseradish peroxidase #chromogen #độ nhạy #sợi thần kinh
Phát hiện chất gây ung thư dưới dạng đột biến trong thử nghiệm Salmonella/microsome: kiểm tra 300 hóa chất. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 72 Số 12 - Trang 5135-5139 - 1975
Khoảng 300 chất gây ung thư và không gây ung thư thuộc nhiều loại hóa học khác nhau đã được kiểm tra tính đột biến gen trong thử nghiệm Salmonella/microsome đơn giản. Thử nghiệm này sử dụng vi khuẩn như là chỉ thị nhạy cảm cho tổn thương DNA, và các chiết xuất gan động vật có vú để chuyển hóa chất gây ung thư thành dạng đột biến hoạt động. Các dữ liệu định lượng về tính đột biến từ các đường cong ...... hiện toàn bộ
#chất gây ung thư #đột biến #thử nghiệm Salmonella/microsome #hóa chất #tổn thương DNA #chuyển hóa #định lượng #mạnh #tương quan #không gây ung thư #môi trường
Các tế bào trung mô tủy xương người ức chế sự sinh sản T-lymphocyte do các kích thích tố tế bào hoặc không đặc hiệu gây ra Dịch bởi AI
Blood - Tập 99 Số 10 - Trang 3838-3843 - 2002
Các tế bào T lymphocyte CD2+ thu nhận từ người cho tế bào trung mô tủy xương (BMSCs) hoặc một bên thứ ba đã được nuôi cấy trong các phản ứng lymphocyte hỗn hợp (MLRs) với các tế bào trình diện kháng nguyên dị hợp huyết (DCs) hoặc các lymphocyte máu ngoại vi (PBLs). Khi các BMSCs tự thân hoặc đồng loại được bổ sung vào các tế bào T bị kích thích bởi DCs hoặc PBLs, có sự giảm thiểu rõ rệt và...... hiện toàn bộ
p62/SQSTM1 hình thành các tụ protein bị phân hủy qua quá trình tự thực bào và có tác dụng bảo vệ trên cái chết tế bào do huntingtin gây ra Dịch bởi AI
Journal of Cell Biology - Tập 171 Số 4 - Trang 603-614 - 2005
Quá trình phân hủy tự thực bào các tập hợp protein bị ubiquitin hóa là rất quan trọng cho sự sống sót của tế bào, nhưng cơ chế mà cơ chế tự thực bào nhận biết các tập hợp đó thì vẫn chưa được biết đến. Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo rằng sự polymer hóa của protein liên kết polyubiquitin p62/SQSTM1 tạo ra các thể protein có thể nằm tự do trong chất nguyên sinh và nhân hoặc có mặt t...... hiện toàn bộ
Xác định triển vọng các tế bào gốc gây ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI
Cancer Research - Tập 65 Số 23 - Trang 10946-10951 - 2005
Tóm tắt Các liệu pháp hiện có cho ung thư tuyến tiền liệt tiêu diệt phần lớn các tế bào trong khối u. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân sẽ phát triển thành bệnh không phụ thuộc androgen mà hiện tại chưa thể điều trị bằng các chiến lược điều trị hiện có. Hiện có ngày càng nhiều bằng chứng ở một số loại ác tính rằng các tế bào khối u được tổ chức theo một h...... hiện toàn bộ
Tổng số: 2,685   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10